Có một thời, sách không phải là thứ để mua. Không phải vì người ta không muốn, mà vì đơn giản, sách làm ra không phải để bán.
Trong phần lớn chiều dài lịch sử, sách là một dạng hiện diện cá biệt gần như nghi lễ. Một bản chép tay ngốn của người biết chữ hàng tháng trời, từng có thời đáng giá cả gia tài, trong tiểu thuyết cổ trang có rất nhiều thư sinh và nữ giả nam kiếm sống được bằng nghề chép sách (đến thế hệ của tôi thì chắc là ứng với nghề đánh máy và photocopy?). Ngày nay thì quá dễ mà, chỉ cất tiếng là chữ chạy ra, như vậy công nghệ đã tiêu diệt một ngành nghề khổ sai mà lại không thể phát tài.
Lại nói, sách xưa không nhằm phổ biến tri thức, mà để giữ gìn trật tự của giáo lý, của đạo trị, của gia phả, của uy quyền. Machiavelli viết The Prince như một bản tấu, một lời dâng, một nỗ lực giành lại chỗ đứng trong guồng máy quyền lực đã trượt khỏi tay ông. Không có đích đến nào khác ngoài hình hài Lorenzo de Medici. Tương tự, ở phương Đông, những tập chiếu, biểu, tấu, hay các bản chú giải Tứ Thư cũng thường được soạn để trình lên vua, để thi đình, để khắc vào mộc bản rồi cất trong kho Quốc Tử Giám chứ không phải để đặt lên kệ một hiệu sách. Lê Quý Đôn từng mất mười năm viết cuốn gì nhất thời tôi quên mất tên, dâng lên chúa Trịnh và được thưởng hai lạng bạc. Ấy có nhẽ chỉ ở Việt Nam sách mới có giá cả thân dân như vại.
Đến một ngày nọ, khi tri thức thôi là đặc quyền của một nhóm nhỏ, và nhất là khi công nghệ cho phép nhân bản tri thức nhanh hơn, rẻ hơn, và quan trọng nhất, vô danh hơn, thì sách từ vai trò vật tế, của báu, vé vào cửa tinh hoa, lại trở thành hàng hóa,
Quá trình thương mại hóa sách diễn ra với nhịp độ khác nhau giữa hai lục địa Á-Âu. Tại phương Tây, cột mốc năm 1450 với máy in chữ rời của Johannes Gutenberg đã tạo nên một cú sốc thực sự. Việc giảm chi phí sản xuất xuống hàng chục lần không chỉ giúp Kinh Thánh đến tay nhiều người hơn mà còn khai sinh ra khái niệm “nhà xuất bản” và các hội chợ sách như Frankfurt. Đến thế kỷ 18, khi luật bản quyền đầu tiên (Statute of Anne) ra đời, sách chính thức được thừa nhận là một loại tài sản thương mại hợp pháp.
Ở phương Đông, đặc biệt là Trung Quốc, thương mại hóa sách diễn ra sớm hơn nhưng theo một lộ trình khác.
Trung Quốc đã biết in mộc bản từ thế kỉ 7, và có lẽ là nơi đầu tiên trên thế giới đưa sách vào sản xuất hàng loạt, dù ban đầu là do nhà nước chủ trì nhằm phổ cập Nho học cho hệ thống khoa cử. Đến thế kỉ 10, in mộc bản đã thoát ly khỏi khuôn khổ chùa chiền để tỏa ra đời sống dân gian. Các thư lâm (nhà in tư nhân) tại Phúc Kiến biến sách thành mặt hàng thiết yếu cho tầng lớp sĩ tử đang ngày càng đông đảo. Ấn phòng tư nhân tấp nập mở ra (i như phong khí studio thu âm ở nước ta thập kỉ trước), và sách trở thành một phần của đời sống đô thị. Tô-Hàng thi nhau xuất hiện các phố sách, thậm chí còn có sách giả, sách lậu, và cả sách best-seller (như truyện kì ảo, thoại bản, hay tiểu thuyết chương hồi). Đến cá nhân như Tống Từ cũng có thể tự làm bản khắc gỗ tại cơ quan ông ra rồi đem in hàng loạt phát cho đồng liêu trong tỉnh nhằm phổ cập chuyên môn và từ đó nhân gian biết đến cuốn sách pháp i đầu tiên trên thế giới: Tẩy oan tập lục. Về sau triều đình biết và cho in hàng loạt để phổ cập khắp đất nước, tuy chẳng đem lại đồng bản quyền nào nhưng nhờ thế Tống Từ đã sống tới 800 năm. Nhân thể nói luôn, Tống Từ có tâm, có kiến thức chuyên môn, nhưng không có chút khái niệm nào về viết sách, Tẩy oan tập lục hoàn toàn là một bản nháp vô tổ chức. Tuy thế đọc cũng thú vị, ví dụ chương gần cuối có tiêu đề ly kì là cứu sống người đã chết (chết giả thôi, chết thật thì khỏi). Ví dụ gặp người đuối nước, cứ việc gập chân họ vác lên vai như đeo ba lô mà chạy, đợi nước chảy ra hết thì họ sẽ sống lại. Người treo cổ từ sáng tới tối thì cứu được, còn từ đêm tới sáng thì khỏi.
Tuy nhiên nhìn chung, khác với châu Âu, sách châu Á hồi ấy vẫn chưa hoàn toàn tách khỏi chức năng đạo đức-chính trị. Người ta in sách chủ yếu để học, để thi, để giữ đạo, chứ ít khi để giải trí thuần túy hay kiếm lời.
Ngoại lệ thú vị là Nhật Bản thời Edo (1603–1868). Trong bối cảnh hòa bình kéo dài, đô thị phồn thịnh và tầng lớp thương nhân trỗi dậy, sách thực sự trở thành hàng hóa đại chúng. Những hiệu sách ở Edo, Osaka bán đủ loại: từ kibyoshi (sách minh họa châm biếm), sharebon (sách phong tục), đến tiểu thuyết của Ihara Saikaku, tác phẩm về đời sống thị dân, tiền bạc, tình ái, với lối viết sống động, dí dỏm, đôi khi tục tĩu. (Tôi đợt trước có quan tâm một cuốn sharebon, đại khái là cẩm nang đi lầu xanh thời Edo, dạy các anh chân đất mắt toét làm sao lần đầu đặt chân vào nơi yến oanh mà vẫn có dáng vẻ tay chơi dày dạn. Nhưng không thấy ở đâu bán cả, bản chép tay ở bảo tàng thì thật sự tại hạ không đánh vần nổi.) Điều đặc biệt: độc giả của những sách này không phải là Nho sinh hay quan lại, mà là phụ nữ, tiểu thương, thợ thủ công, những người đọc sách vì thích chứ không vì nghĩa vụ. Đây có lẽ là ví dụ sớm nhất, rõ nhất ở châu Á về một thị trường sách dân sự, nơi nhu cầu đọc (chứ không phải mệnh lệnh triều đình) quyết định đầu ra.
Còn ở Việt Nam? Có lẽ phải đến khá muộn.
Dù có truyền thống Nho học lâu đời, và dù mộc bản kinh điển đã được khắc từ thời Lê Sơ (thế kỷ XV), phần lớn sách vẫn nằm trong vòng khép kín của học giới và triều đình. Sách Nôm như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên tuy lan truyền rộng, nhưng chủ yếu qua chép tay, qua lớp lang thầy-trò, chứ không qua hệ thống xuất bản thương mại. Phải chờ đến khi hệ thống in ấn hiện đại xuất hiện, có các nhà in tư nhân cuối thế kỷ 19, rồi những hiệu sách như Khai Trí, Tân Dân đầu thế kỷ 20, sách mới thực sự bước vào guồng máy thị trường: được in hàng trăm bản, quảng cáo trên báo, bày bán công khai, và, quan trọng nhất, khách mua là những người đọc không vì mục đích đỗ đạt, tấu trình, và không cần giải thích lý do muốn đọc.
Ngẫm lại, việc một cuốn sách từ chỗ đắt giá liên thành đến chỗ để bình dân bách tính dễ dàng mua về, đọc một mình, viết bên lề, gấp tai chó, cho mượn hoặc vứt xó, kể cũng là một thành tựu văn minh không hề nhỏ.