Tàu thì cái gì cũng chuốt thành Kinh, nên có cả kinh chơi gái.
Nhật thì cái gì cũng quy thành Đạo, nên có cả đạo tình trai.
Với Giang hồ lịch lãm, cuốn cẩm nang chống lừa đảo đầu tiên của Trung Quốc ra đời vào thời nhà Minh, các dịch giả Rea và Rusk đặt tên sách là The Book of Swindles (Kinh Lừa) với lời giải thích
Ở Trung Quốc thời tiền hiện đại, thuật ngữ “kinh” dành cho các văn bản cốt lõi của một lĩnh vực tri thức, ví như kinh điển triết học, kinh văn tôn giáo. Nhưng dần dà, “kinh” mở rộng trường nghĩa sang các lĩnh vực ít trang trọng hơn như Trà kinh (kinh chơi trà), Cầm kinh (kinh chơi đàn), Phao kinh (kinh chơi gái), miễn là diễn giải được chuyên đề một cách toàn diện, vững chãi, thuyết phục thì đều có thể gọi là KINH.
Nghe quá là thuyết phục luôn, nên tôi cũng đặt tên bản tiếng Việt là Kinh Lừa. Nhưng bạn đăng kí giấy phép báo lại là nhà xuất bản lắc đầu và gợi í nhan đề Cẩm nang chống lừa đảo.
Tôi lắc đầu lại. Nhà xuất bản bèn bảo vậy đặt Giang hồ lịch lãm đỗ biển tân thư, lần này lắc nữa thì xách bản thảo lên và biến.
Trước sức ép của việc không lấy được giấy phép xuất bản và sự chật hẹp của khung đặt typo, cuối cùng thì tôi đã nhún gối trước quyền uy, đồng í đặt là Giang hồ lịch lãm. Thành ra thu được một sự kết hợp mà 18 năm qua từ khi đọc tiểu thuyết của Trần Thị Bảo Châu tôi vẫn mon men muốn thử nhưng chưa ai ưng thuận, đó là làm cho một ấn phẩm có Tên, Hình và Ruột không phản chiếu gì nhau. Mỗi đứa ca một điệu.
Hôm nay thì sách đã in xong, để tam điệu hòa làm một nằm xanh mướt trước mặt. Nhìn chữ Giang hồ lịch lãm đáng tin, con lừa tung tăng đáng yêu và 24 mánh lừa đáng sợ bên trong, thình lình nhận thấy một chuyện. Sự riêng rẽ hài hòa này, chính là nghệ thuật sắp đặt.
Tàu đúng là cái gì cũng chuốt thành Kinh, Nhật đúng là cái gì cũng quy thành Đạo, nhưng Việt Nam nào có kém đâu, cái gì cũng nâng tầm thành Nghệ thuật.
Nếu nhận thấy sớm, có thể một phương án đặt tên kiểu “Nghệ thuật lừa” đã được đưa vào cân nhắc.
Nhưng chuyện đó giờ không quan trọng, Giang hồ lịch lãm dù gì cũng là một cái tên khả ái, xứng đáng với cuốn sách độc đáo sắp trở nên lừng lẫy này.
Quan trọng là tôi nhận thấy, Kinh, Đạo, hay Nghệ thuật chỉ là những tên gọi khác nhau cho cùng một mục đích, ngụ í rằng một khái niệm, phạm trù hoặc hoạt động đã thông qua quá trình diễn giải sâu rộng hoặc thực hành đầy đủ mà trở thành một hệ thống triết lý, kĩ năng hoặc dây chuyền hoàn chỉnh.
Chúng không phải là những từ ngữ ngẫu nhiên, mà là biểu tượng cho mô hình nhận biết (cognitive model) hay cách từng dân tộc cấu trúc hóa thế giới quan của mình. Dịch ra tiếng người là, Kinh-Đạo-Nghệ thuật hé lộ đặc điểm tâm thức và tính cách tập thể của mỗi nước.
Kinh (經) trong văn hóa Trung Hoa là “sách thánh phải học”, mang tính chính thống, kinh điển, quy phạm. Từ gắn liền với giáo lý Nho-Đạo-Phật, cho đến muôn mặt đời thường như rượu chè cờ bạc… Việc gọi một lĩnh vực là “Kinh” cho thấy người hàng xóm ấy muốn hệ thống hóa everything, biến nó thành bộ quy tắc có tính thẩm quyền, gần như bất di bất dịch. Điều này phản ánh tâm thức nệ cổ, trọng truyền thống, đề cao trật tự khuôn phép và học hành bài bản. Ngay cả những hoạt động tưởng chừng dung tục như đi lầu xanh cũng được gọt giũa thành Phiêu kinh, chứng tỏ khả năng bao dung và hệ thống hóa mọi mặt đời sống cực kì phát triển.
Từ đó rút ra được tính cách dân tộc Hoa Hạ: Thực dụng nhưng phép tắc; thừa kế truyền thống, nỗ lực quy hoạch mọi mặt sinh hoạt thành tri thức có kết cấu.
Đạo (道) trong văn hóa Nhật là “con đường phải đi”, đường thương đau đày ải nhân gian, ai chưa qua chưa phải là người [Nhật]. Từ trà đạo, thư đạo, kiếm đạo, cho chí nhược chúng đạo (wakashudo/đạo tình trai)… không lĩnh vực nào chỉ đơn thuần là kĩ năng, mà đều là hành trình tu dưỡng tâm hồn, hướng đến sự hoàn thiện nội tại. Khác với Kinh mang tính ngoại tại (quy tắc từ bên ngoài), Đạo nhấn mạnh quá trình vận động nội tâm, sự giác ngộ, tính nghi lễ và thẩm mỹ. Cho nên trà đạo không chỉ là pha trà, mà là một dạng thiền, một cách sống. Dân Nhật thường tinh giản, cô đọng, và gắn hành vi với những ý nghĩa siêu nghiệm. Mọi hoạt động đều có thể trở thành Đạo nếu được thực hành bằng tâm thế nghiêm trang và tập trung.
Từ đó rút ra tính cách dân tộc Phù Tang: Hướng nội, đề cao kỉ luật tinh thần, thẩm mỹ hóa đời sống, coi trọng quá trình hơn kết quả.
“Nghệ thuật” ở Việt Nam là “ngón nghề phải khéo”, ít mang tính thiêng liêng hay hệ thống mà thiên về kĩ xảo, uốn dẻo, có lẽ hình thành do hoàn cảnh con nhà nghèo, thiếu điều kiện lý tưởng (bốn ngàn năm gần như toàn bận đánh giặc, mất hết thời gian làm kinh tế, tiến lên xã hội chủ nghĩa một cách quá độ mà không được hụt chân). Việc người Việt hay dùng cụm từ “nghệ thuật” (nghệ thuật sống, nghệ thuật giao tiếp, nghệ thuật nói dối…) cho thấy một tư duy thực tiễn, linh hoạt, thậm chí luôn tự tìm khuây khỏa. Điều này phản ánh tâm thức dân gian ta: thích ứng cao, coi trọng mưu mẹo và uyển chuyển, không quá câu nệ lý thuyết, thường dùng hài hước để chế ngự nghịch cảnh. “Nghệ thuật” trong tiếng Việt đôi khi mang sắc thái mỉa mai, tỏ rõ ý thức tự xét lại, người Việt biết rằng mình đang “diễn”, đang “ngụ ý”, chứ không ảo tưởng cái gì là đạo lý phi phàm.
Từ đó rút ra tính cách con Rồng cháu Tiên: Tài tử, dí dỏm, chẳng đi đâu mà vội, chẳng có gì phải xoắn, linh hoạt, thực tế, giỏi biến cái không thể thành có thể.
Tóm lại, Trung Quốc “học để trị”, Nhật Bản “học để tu”, còn Việt Nam “học để sống”.
Đại Trung Quốc muốn kiểm soát thế giới bằng hệ thống kiên cố.
Đại Nhật Bản muốn hòa nhập thế giới bằng tinh luyện nội tâm.
Đại Việt Nam muốn sống, yêu và ăn thế giới bằng bản lĩnh thiên biến vạn hóa. Giống như bài này vậy, chỉ muốn múa lụa IPM Tinh Tuyển đã ra cuốn thứ 2
#1 MƯA SUỐT ĐÊM DÀI
#2 GIANG HỒ LỊCH LÃM
mà tôi uốn éo kinh động cả cộng đồng Đông Á, từ một câu tweet nhỏ hồi tháng Tám triển khai tầm nhìn liên bộ môn từ ngôn ngữ sang văn hóa rồi nhân học.
Hai năm nay tôi có đọc một ít chiêm tinh Vệ Đà, may là chưa đến đâu chứ không thì cả Ấn Độ cũng sẽ bị lôi vào với shastra.