Trong các tác phẩm Trung đại từng xem, Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn và Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là hai sách tôi đọc nhiều lần nhất, cũng thích nhất, mỗi lần giở ra lại có một cảm nhận mới mẻ, về chính văn bản hoặc về tác phong/tâm trạng của các ông. Trong khi tôi đọc Nguyễn Trãi từ khá sớm, tại tàng thư ở nhà có sẵn, thì với Lê Quý Đôn, mãi cho tới tuổi được vào Thư viện Quốc gia, hiểu biết vẫn chỉ dừng ở bài thơ rắn, quả là một điều đáng tiếc.
Lê Quý Đôn là người làm việc có hệ thống, có hiệu quả, ngay cả từ việc đọc: có đọc tạp nhưng không bao giờ đọc suông. Ông tiếp cận thật nhiều hiện tượng để tìm ra quy luật chung, từ đó đạt đến hiểu biết và vận dụng. Lê Quý Đôn không chỉ uyên bác, ham học, mà luôn hướng tới mục đích thực hành.
Đề tựa Vân đài đã tỏ rõ
Người xưa nói học thuyết cách vật trí tri, nếu phát huy được hiệu quả đến việc tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ thì có thể gọi là uyên bác vậy.
Đạo nằm trong sự vật. Dù xa đến cùng trời cuối đất, hay gần như sinh hoạt hằng ngày, tất cả đều có lý, có lẽ, bậc quân tử không thể không nắm bắt.
Phải học để tích lũy, hỏi để phân biệt, ôn cũ để biết mới, lấy lòng hậu tôn lễ nghi, theo tháng ngày ắt sẽ thông suốt, thấu đạt lý cùng tình để hiểu mệnh trời, nắm tinh thần ý nghĩa để ứng dụng thực tiễn. Tất cả khởi phát từ đây.
Lê Quý Đôn đọc rộng khắp các sách vở, đồng thời phân loại trích dẫn kèm theo ghi chú bình luận, tích lũy qua năm tháng để thành sách. Vân đài loại ngữ và Kiến văn tiểu lục chính là những đại diện tiêu biểu cho kiểu biên soạn này.
Hai sách là một cặp (đối trọng) với nhau. Vân đài loại ngữ phản ánh cái nhìn của người Trung Quốc với người Việt, trong khi Kiến văn tiểu lục cho thấy cách người Việt nhìn nhận tên láng giềng phương Bắc.
Vân đài loại ngữ gồm 9 quyển, hoàn thành vào năm 1773.
Kiến văn tiểu lục gồm 12 quyển, hoàn thành vào năm 1777, nhưng bốn quyển trong đó chỉ có mục lục.
Các trích dẫn trong Vân đài loại ngữ chủ yếu là của Trung Quốc, tư liệu Việt Nam chỉ chiếm một phần nhỏ. Ngược lại, Kiến văn tiểu lục trừ quyển 1 (Châm cảnh) lấy từ Trung Quốc, các quyển còn lại đều dựa trên sách vở hoặc kiến văn Việt Nam. Cơ bản chính là reading journal, chúng ta nay không lạ lùng gì, nhưng qua í thức ghi chép ngay từ đầu, cộng thêm chọn lọc và tổ chức kèm bình luận về sau của Lê Quý Đôn, thì lại trở thành các cấu trúc tri thức.
Hai sách này hiện được lưu trữ dưới dạng bản chép tay tại thư viện của Viện Hán-Nôm (nơi gần đây nghe đồn đang nhiều người tự tử).
Lê Quý Đôn trước tác theo phương pháp âm bản: thu thập, phân loại tư liệu, khi thì nêu nhận xét, khi thì chỉ chép nguyên văn, nhưng tất cả đều được sắp xếp có hệ thống. Vì vậy, sách ông có thể dùng làm căn cứ cho người đọc để soi xét ba tài, ứng biến muôn việc, nhìn từ góc độ nào cũng có ích.
Dù ông khiêm tốn cho rằng học vấn của mình chỉ thuộc loại học để hành, không bàn đến nghĩa lý cao xa như các bậc lý học, nhưng thực tế đọc kĩ toàn bộ phần Đề tựa, cũng như cấu trúc và thứ tự các quyển trong sách, có thể thấy học thuật của ông luôn xoay quanh rèn mình để hướng tới trị đời.
Đồng thời, Lê Quý Đôn chủ trương phải học rộng, bao quát cổ kim cả Việt lẫn Trung, nhằm nhận biết sự dị biệt giữa các thời đại và các miền-vùng, từ đó tìm được quy luật chung về sự tương sinh, tương dưỡng. Việc dung hợp các sự vật khác biệt qua thời gian và không gian như vậy chính là cách thiết lập một hệ thống tri thức có khả năng kết nối hai dân tộc.
Kinh Dịch có câu, "Quân tử cần ghi nhớ nhiều lời nói và hành vi xưa để tích đức."
Thượng thư viết, "Người ta cần cầu cho được học rộng nghe nhiều, như vậy mới có thể lập được sự nghiệp đúng thời."
Khổng Tử hỏi, "Sao các trò không học Kinh Thi, trước để thờ cha, sau để hầu chúa, lại biết được tên chim muông cây cỏ?"
Tất cả đều ngụ í thực hành cách vật. Phải cách vật thì mới đạt đạo, thấu mệnh trời, áp dụng vào việc trị đời. Cách vật không thể bó hẹp, mà là truy cầu tri thức từ mọi thứ, nỗ lực học hỏi một cách bao quát, uyên bác.
Lê Quý Đôn nhận định: thiên tượng, địa lý, nhân văn đều có “thường”, tức quy luật bất biến. “Thường” chính là điểm giống trong những cái khác nhau. Với trời, đó là quy luật về thời tiết, vận hành tinh tú. Với đất, đó là quy luật về mạch núi, sông ngòi, thảo mộc.
Tuy nhiên, “thường” trong lĩnh vực nhân văn thì phức tạp hơn nhiều. Những biến đổi và sai biệt giữa xưa và nay, giữa Trung và Việt, đều xuất phát từ “thường” của thời thế, cần biết thông biến. Sự khác biệt trong đời sống, tập quán, tâm tính con dân hai nước xuất phát từ một “thường” khác, đó là lý tưởng chung sống yên ổn, nuôi dưỡng, quy phạm và bảo tồn lẫn nhau.
Với nhân văn, học rộng chính là để tìm ra các “thường” này. Nhưng ngay trong quá trình học rộng cũng cần lấy đạo lý làm chuẩn để chọn lựa, suy xét, thì mới tránh được việc học một cách lan man, dàn trải mà rốt cuộc chẳng thu được gì.
Kiếm được bốn bản dịch Vân đài, bản đọc vào nhất là của Tạ Quang Phát, nhưng lúc nào cũng tâm niệm làm lại, hoặc chí ít là chú giải, bởi vì ngay trong bản Tạ Quang Phát vẫn có chỗ mù mờ dù đó là sự vật của Việt Nam. Ngoài ra có những điểm sai khác về nghĩa và phiên âm giữa ba bản mà vì thiếu Hán văn tương ứng nên chưa xác định được.
Ngoài ra từ rất lâu rồi muốn dựng danh mục đọc theo Lê Quý Đôn, nhưng cũng vì thiếu Hán văn tương ứng nên khó tìm, lại có khả năng rất nhiều sách thuộc loại không tồn tại được tới quá ba mươi năm sau khi tác giả chết, theo tiêu chuẩn cực đoan của Nagasawa, nên tạm thời không truy nguyên được. Bởi thế tôi đánh dấu hỏi vào lời tựa trong bản Trần Văn Giáp.
Có một trang là thivien.net lập ra cách đây hơn hai mươi năm, đúng là công đức vô lượng về mặt lưu trữ thi từ ca phú và từ điển Hán-Nôm.
Đã rất nhiều lần ước gì có một cái công đức vô lượng như thế cho toàn bộ trước tác tiền nhân nước nhà, tương tự ctext.org.
Nhưng ước thì giải quyết được gì, chí cả tài hèn chỉ biết mượn cái luận điệu lông bông vô trách nhiệm của Mạnh Tử để chữa thẹn, “Kế sách thì tôi chưa tính tới. Bậc quân tử có ba điều vui, mà số hóa cổ thư không phải là một trong những cái vui ấy.”